Bảo vệ người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự
1. Quy định của pháp luật
Theo quy định tại Điều 116 Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS) thì “giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Thông qua giao dịch dân sự các chủ thể hướng đến mục đích lợi ích mà mình mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó. Để đảm bảo một giao dịch dân sự không bị vô hiệu thì giao dịch dân sự phải đảm bảo các điều kiện quy định tại Điều 117 BLDS. Tuy nhiên, thực tế tồn tại nhiều trường hợp các chủ thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự nhưng lại không đạt được lợi ích mà mình mong muốn mặc dù họ hoàn toàn thiện chí và ngay thẳng khi tham gia vào giao dịch đó. Những chủ thể này được xác định chiếm hữu không có căn cứ pháp lý đối với tài sản nhưng không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật. Trường hợp này pháp luật xác định họ là người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự.
Pháp luật dân sự không định nghĩa cụ thể thế nào người thứ ba ngay tình Điều 180 BLDS có quy định về việc chiếm hữu ngay tình là “việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu”. Đồng thời, từ điển luật học có giải thích rằng: “Người thứ ba ngay tình khi tham gia giao dịch dân sự vô hiệu là người được chuyển giao tài sản thông qua giao dịch mà họ không biết, không buộc phải biết tài sản đó do người chuyển giao cho họ thu được tự một giao dịch dân sự vô hiệu”.
Như vậy, có thể hiểu người thứ ba ngay tình là người tại thời điểm tham gia giao dịch dân sự người này không có cơ sở để biết việc giao dịch của mình với người không có quyền định đoạt tài sản hoặc đối tượng tài sản của giao dịch liên quan đến giao dịch trước đó đã bị vô hiệu do tại thời điểm khi tham gia vào giao dịch liên quan đến giao dịch trước đó đã bị vô hiệu do tại thời điểm khi tham gia vào giao dịch dân sự, người thứ ba ngay tình hoàn toàn tin rằng người giao dịch với mình là người có quyền giao dịch và đối tượng tài sản giao dịch đáp ứng các điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực, từ đó cho thấy người ngay tình hoàn toàn không có lỗi khi tham gia vào giao dịch.
2. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình
Tại Điều 133 BLDS quy định về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu như sau:
“1. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 167 của BLDS.
2. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.
Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.
3. Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều này nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại, nếu có”
Như vậy, tùy từng loại giao dịch dân sự mà pháp luật sẽ đưa ra những quy định bảo vệ khác nhau đối với người thứ ba ngay tình để đảm bảo rằng họ không bị thiệt thòi.
Trường hợp thứ nhất: Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn còn hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 167 BLDS, đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu. Tức là không có giấy tờ chứng minh ai là chủ sở hữu tài sản thì việc chiếm hữu tài sản nghĩa là người đó có quyền sở hữu đối với tài sản đó. Vì vậy, giao dịch với người thứ ba đối với tài sản này vẫn có hiệu lực. Trừ trường hợp người chiếm hữu ngay tình hay người thứ ba ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản hoặc trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cấp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.
Ví dụ: Để có tiền chơi điện tử M (10 tuổi) bán chiếc xe đạp của ba mẹ cho anh N, sau đó anh N bán chiếc xe đạp này cho anh Y, anh Y đã mua và trả tiền cho N và đã nhận xe. Trong trường hợp này, xét theo quy định của Điều 21 BLDS thì giao dịch giữa M và N bị vô hiệu do anh N giao dịch với người chưa đủ 15 tuổi và việc bán chiếc xe đạp này của M không nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, đồng thời chưa có sự đồng ý của ba mẹ M, còn đối với giao dịch giữa anh N và anh Y không bị vô hiệu vì đủ điều kiện để giao dịch có hiệu lực, mặc dù giao dịch ban đầu đối với tài sản đem ra giao dịch là chiếc xe đạp đã bị vô hiệu, vì theo khoản 1 Điều 133 BLDS “Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngày tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn còn hiệu lực”. Như vậy chiếc xe đạp mà anh Y mua theo quy định của pháp luật là tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu, do đó anh Y không có cơ sở để biết rằng mình mua chiếc xe đạp là đối tượng tài sản giao dịch trước đó đã bị vô hiệu, trong trường hợp này anh Y được coi là người thứ ba ngay tình và được pháp luật bảo vệ quyền lợi, lúc này chủ sở hữu tài sản là cha mẹ của M không có quyền đòi lại lại tài sản từ anh Y.
Trường hợp thứ hai: Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu. Như vậy, tài sản giao dịch phải là tài sản mà pháp luật có quy định phải đăng ký và việc đăng ký phải thực hiện tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về đăng ký tài sản. Theo Điều 106 của BLDS năm 2015 quy định về đăng ký tài sản như sau: “Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là động sản được đăng ký theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đăng ký tài sản. Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là động sản không phải đăng ký, trừ trường hợp pháp luật về đăng ký tài sản có quy định khác. Việc đăng ký tài sản phải được công khai”. Theo quy định hiện nay một số tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản như sau:
| Tài sản phải đăng ký | Căn cứ pháp lý |
| Đất đai | Luật đất đai 2013 |
| Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai | Luật nhà ở 2014 |
| Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng | |
| Tài sản khác (bất động sản) theo quy định của pháp luật. | |
| Đăng ký tàu biển | Nghị định 171/2016/NĐ-CP về đăng ký, xóa đăng ký và mua, bán, đóng mới tàu biển |
| Đăng ký phương tiện nội thủy địa | Luật Giao thông đường thủy nội địa 2004 |
| Đăng ký tàu cá | Thông tư 23/2018/TT-BNNPTNT |
| Đăng ký phương tiện giao thông cơ giới đường bộ | Thông tư 15/2014/TT-BCA quy định về đăng ký xe |
| Đăng ký quyền sở hữu tàu bay | Nghị định 68/2015/NĐ-CP |
| Đăng ký phương tiện giao thông đường sắt | Thông tư 21/2018/TT-BGTVT |
| Đăng ký tài sản là vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ | Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ 2017 |
Tại thời điểm tham gia giao dịch dân sự người này không có cơ sở để biết việc giao dịch của mình với người không có quyền định đoạt tài sản hoặc đối tượng tài sản của giao dịch liên quan đến giao dịch trước đó đã bị vô hiệu do tại thời điểm khi tham gia vào giao dịch liên quan đến giao dịch trước đó đã bị vô hiệu do tại thời điểm khi tham gia vào giao dịch dân sự, người thứ ba ngay tình hoàn toàn tin rằng người giao dịch với mình là người có quyền giao dịch và đối tượng tài sản giao dịch đáp ứng các điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực và căn cứ vào tài sản đã được đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để tin rằng người đó có quyền giao dịch đối với mình.
Tuy nhiên, nếu tài sản phải được đăng ký nhưng chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thì giao dịch dân sự với người thứ ba sẽ bị vô hiệu. Điều này trừ khi người thứ ba ngay tình nhận được tài sản thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa (K2 Đ133 BLDS).
Điều này có nghĩa là, người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi khi tham gia vào giao dịch dân sự, miễn là họ tuân thủ các quy định về đăng ký tài sản tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nếu không, họ có thể đối mặt với rủi ro mất quyền sở hữu tài sản.
Ngoài ra, tại khoản 3 Điều 133 BLDS năm 2015 có quy định về việc “Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự này với người này không bị vô hiệu nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lí và bồi thường thiệt hại”. Do giao dịch với người thứ ba ngay tình được pháp luật bảo vệ nên chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình mà chỉ có quyền kiện chủ thể có lỗi làm cho giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí bồi thường thiệt hại.
Tin liên quan
Liên hệ
Địa chỉ:
Tầng trệt, Tòa nhà Babylon Garden, số 6-7 Phan Tôn
Phường Đa Kao, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh
Số điện thoại: 0902 50 58 78
Email: info@spl-law.com.vn