Đặc điểm, quy định giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo Tòa án
1. Đặc điểm các tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Theo quy định tại khoản 21 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020, Kinh doanh là “việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả công đoạn của quá trình từ đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận”
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005, hoạt động thương mại là “hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng háo, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”
Như vậy, theo quy định nêu trên thì khái niệm kinh doanh có nội hàm rộng hơn và hoạt động thương mại của các thương nhân, tổ chức, các nhân khác có liên quan đến thương mại chỉ là một trong số các công đoạn của hoạt động kinh doanh.
Hiện nay, các tranh chấp về kinh doanh, thương mại (KDTM) là những tranh chấp phát sinh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận nên có một số đặc điểm sau:
- Chủ thể của tranh chấp KDTM: Theo quy định tại khoản 1 Điều 30 LTTDS, tranh chấp KDTM là tranh chấp giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
- Căn cứ làm phát sinh tranh chấp KDTM là hành vi vi phạm hợp đồng hoặc vi phạm pháp luật: Tranh chấp KDTM phát sinh từ những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ hoạt động KDTM. Đó là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ những hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm nhưng không giới hạn tất cả các công đoạn quá trình đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác hay các tranh chấp phát sinh từ hoạt động quản lý nội bộ của các doanh nghiệp như tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, tranh chấp giữa các thành viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia tách, bàn giao tài sản công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty v.v…
- Tranh chấp KDTM có tính chất đa dạng, phức tạp, từ tranh chấp này có thể dẫn đến tranh chấp khác. Đó là tính phức tạp và đa dạng của các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể có lợi ích khác nhau trong nền kinh tế thị trường.
- Các phương thức giải quyết tranh chấp KDTM: Theo Điều 317 Luật thương mại, các phương thức giải quyết tranh chấp bảo gồm: Thương lượng, hòa giải, Trọng tài thương mại và Tòa án.
Mỗi phương thức giải quyết có sự khác nhau về tính chất pháp lý, nội dung của thủ tục, trình tự tiến hành. Các bên có quyền tự do lựa chọn phương thức phù hợp, phụ thuộc vào lợi thế mà mỗi phương thức có thể mang lại, mức độ phù hợp của phương thức so với nội dung tính chất của tranh chấp và thiện chí của các bên. Việc lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp (Trọng tài hoặc Tòa án) do các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh thỏa thuận trước hoặc sau khi phát sinh tranh chấp hoặc do pháp luật quy định.
Theo quy định tại Điều 30 BLTTDS, tranh chấp KDTM thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm:
“Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty.
Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật”.
Để giải quyết nội dung các tranh chấp kinh doanh, thương mại, ngoài việc nắm vững các quy định của BLDS, tùy vào tranh chấp trong từng ngành, nghề, lĩnh vực, hoạt động KDTM khác nhau, cần phải nắm vững các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành điều chỉnh đối với ngành, nghề, lĩnh vực, hoạt động.
2. Quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mai theo Tòa án
2.1. Quy định về việc khởi kiện, thụ lý, thông báo thụ lý vụ án
Khởi kiện:
Đối với cá nhân là người khởi kiện: Hầu hết những tranh chấp trong hoạt động KDTM phát sinh giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận nên khi cá nhân khởi kiện đều có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Vì vậy, họ có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người khởi kiện phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của cá nhân đó và phần cuối đơn người đó phải điểm chỉ.
Đối với pháp nhân là người khởi kiện thì người đại diện hợp pháp của pháp nhân có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên đại chỉ của người khởi kiện phải ghi tên, địa chỉ của pháp nhân và họ, tên, chức vụ của người đại diện hợp pháp của pháp nhân đó; ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp của pháp nhân phải ký tên và đóng dấu của pháp nhân đó.
Xác định thời hiệu khởi kiện: Tùy thuộc vào quan hệ pháp luật tranh chấp, căn cứ quy định của BLDS và các văn bản pháp luật chuyên ngành để xác định thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp KDTM, cụ thể là:
- Theo quy định tại Điều 319 Luật Thương mại, thời hiệu khởi kiện áp dụng đối với các tranh chấp thương mại là 02 năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, trừ trường hợp, khách hàng khởi kiện thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics, thì thời hiệu khởi kiện là 09 tháng kể từ ngày giao hàng (theo điểm e khoản 1 Điều 237 Luật Thương mại).
- Theo quy định tại Điều 30 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010), thời hiệu khởi kiện về hợp đồng bảo hiểm là 03 năm, kể từ thời điểm phát sinh tranh chấp.
- Theo quy định của Bộ luật Hàng hải năm 2015 thì thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng môi giới hàng hải là 02 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp (Điều 246), thời hiệu khởi kiện về tranh chấp đâm va là 02 năm kể từ ngày xảy ra tại nạn (Điều 290), thời hiệu khởi kiện về việc thực hiện hợp đồng lai dắt tàu biển, thời hiệu khởi kiện liên quan đến hợp đồng bảo hiểm hàng hải là 02 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp (Điều 263, Điều 366),…
- Trường hợp các văn bản pháp luật chuyên ngành không có quy định, thì việc xác định thời hiệu khởi kiện căn cứ quy định tại Điều 184 BLTTDS, Điều 149 BLDS và các quy định tại Điều 429 (quy định thời hiệu khởi kiện về hợp đồng là 03 năm kể từ ngày người yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm), Điều 518 (quy định thời hiệu khởi kiện bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là 03 năm kể từ ngày người yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm)…
Nộp đơn khởi kiện: Người khởi kiện vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại phải làm đơn khởi kiện. Hình thức, nội dung đơn khởi kiện phải tuân thủ quy định tại Điều 189 BLTTDS. Người khởi kiện gửi đơn khởi kiện kèm theo tài liệu, chứng cứ mà mình hiện có đến Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án bằng các phương thức nộp trực tiếp tại Tòa án; Gửi đến Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính; hoặc gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có)
Thủ tục nhận và xử lý đơn khởi kiện: Sau khi nhận đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện và có một trong các quyết định sau đây:
- Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện;
- Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho người khởi kiện nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác;
- Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện trong trường hợp người khởi kiện không có quyền khởi kiện, vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Trường hợp có khiếu nại của người khởi kiện, kiến nghị của Viện kiểm sát về việc trả lại đơn khởi kiện thì Tòa án phải mở phiên họp xem xét khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện theo quy định. Phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp và đương sự có khiếu nại.
- Tiến hành thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc theo thủ tục rút gọn nếu vụ án có đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn quy định tại khoản 1 Điều 317 BLTTDS;
Thụ lý vụ án: Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì Thẩm phán phải thông báo ngay cho người khởi kiện biết để họ đến Tòa án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí trong trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí. Thẩm phán thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí. Trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì Thẩm phán phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo.
Thông báo về việc thụ lý vụ án: Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Tòa án phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, VKSND cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án. Văn bản thông báo thụ lý vụ án phải tuân thủ quy định tại các khoản 2, 3 Điều 196 BLTTDS.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo thụ lý vụ án, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn và tài liệu, chứng cứ kèm theo, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập (nếu có).
2.2. Quy định về việc giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm
Thời hạn chuẩn bị xét xử: Theo điểm a khoản 1 Điều 203 BLTTDS, thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý theo thủ tục thông thường là 04 tháng. Nếu vụ án phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì được gia hạn thêm 02 tháng. Trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa. Trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 tháng. Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Thu thập chứng cứ, lập hồ sơ vụ án: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại khoản 2 Điều 203 BLTTDS.
Thu thập chứng cứ: Về nguyên tắc, nghĩa vụ chứng minh là thuộc về các đương sự nên khi đương sự đưa ra yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu của người khác phải đưa ra các căn cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc.
Trong các trường hợp do BLTTDS quy định, Tòa án có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ.
Đương sự được quyền tiếp cận, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp hoặc do Tòa thu thập, trừ những tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 BLTTDS. Đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác. Việc đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ phải tuân thủ quy định về thời hạn và thủ tục giao nộp theo quy định tại Điều 96 BLTTDS.
Lập hồ sơ vụ án: Cũng như việc lập hồ sơ các vụ án dân sự nói chung, hồ sơ vụ án tranh chấp KDTM bao gồm đơn và toàn bộ tài liệu, chứng cứ của đương sự, người tham gia tố tụng khác; tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập liên quan đến vụ án; văn bản tố tụng của Tòa án, Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án dân sự.
Quy định về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải: Hòa giải là thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ án tranh chấp KDTM nhằm tạo điều kiện cho đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án; trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại khoản 2 Điều 206, Điều 207 BLTTDS.
Đương sự, người đại diện hợp pháp hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được thông báo về thời gian, địa điểm tiến hành phiên họp và nội dung của phiên họp. Trường hợp vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được, Thẩm phán vẫn phải kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Thủ tục tiến hành và nội dung phiên họp thực hiện theo quy định tại các điều 210, 211 BLTTDS.
Người tham gia phiên họp có quyền được xem biên bản ngay sau khi kết thúc phiên họp, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản và ký xác nhận hoặc điểm chỉ. Trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề tranh chấp KDTM trong vụ án thì Tòa án lập Biên bản ghi nhận hòa giải thành. Biên bản này được gửi ngay cho các đương sự tham gia hòa giải. Sau 07 ngày kể từ ngày lập Biên bản ghi nhận sự hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Quy định về phiên tòa sơ thẩm giải quyết vụ án tranh chấp KDTM.
Sau khi hòa giải không thành hoặc những trường hợp không được hòa giải, không hòa giải được, Tòa án phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm. Đối với vụ án thuộc trường hợp pháp luật quy định VKSND phải tham gia phiên tòa thì ngay sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải chuyển hồ sơ vụ án cho VKSND cùng cấp nghiên cứu để tham gia phiên tòa.
Việc xét xử phải trực tiếp, kịp thời, công bằng, công khai, trừ trường hợp đặc biệt cần giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì Tòa án xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai; phải bảo đảm tranh tụng trong xét xử.
Tại phiên tòa, sau khi hỏi về việc rút, thay đổi, bổ sung yêu cầu và giải quyết việc rút, thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự, phần tranh tụng được tiến hành bằng việc nghe lời trình bày về yêu cầu, ý kiến của đương sự, người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự. Các đương sự, người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự tham gia hỏi, đối đáp, trả lời, trình bày, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác dưới sự điều hành của chủ tọa phiên tòa.
Tại phiên tòa, mọi tài liệu, chứng cứ phải được xem xét khách quan, toàn diện, công khai, trừ trường hợp không được công khai theo quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử hỏi những vấn đề chưa hỏi, chưa rõ nhằm làm rõ các vấn đề cần giải quyết trong vụ án. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phải phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.
Căn cứ vào kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử cân nhắc để ra bản án, quyết định sơ thẩm. Việc cấp trích lục bản án sơ thẩm tranh chấp KDTM, việc giao, gửi bản án thực hiện theo quy định tại Điều 269 BLTTDS. Ngoài ra, theo khoản 4 Điều 369 BLTTDS, bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật phải được công bố trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án, trừ trường hợp bản án có chứa thông tin quy định tại khoản 2 Điều 109 BLTTDS
Tin liên quan
Liên hệ
Địa chỉ:
Tầng trệt, Tòa nhà Babylon Garden, số 6-7 Phan Tôn
Phường Đa Kao, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh
Số điện thoại: 0902 50 58 78
Email: info@spl-law.com.vn