Một số quy định về pháp luật hôn nhân và gia đình
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và 2014 đã đề cao vai trò của gia đình trong đời sống xã hội, giữ gìn phát huy truyền thống và những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, xóa bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân gia đình. Luật hôn nhân và gia đình có nhiệm vụ góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam nhằm xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc bền vững.
Hiến pháp năm 1992, Điều 36 Hiến pháp 2013 ghi nhận: Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng tôn trọng lẫn nhau. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em.
Ở Việt Nam, gia đình luôn được xác định là thiết chế xã hội rất qua trọng – là tế bào của xã hội. Do vậy, dù ở bất cứ giai đoạn phát triển, chế độ xã hội nào, gia đình luôn được Nhà nước quan tâm, tác động bằng chính sách, điều chỉnh bằng pháp luật. Đặc biết, quyền con người luôn được đề cao trong quy định của pháp luật Hông nhân và gia đình.
I. Một số quy định chung
1. Nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình
Nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình là nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình. Nội dung của các nguyên tắc cơ bản này thể hiện quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây đựng chế độ hôn nhân và gia đình ở Việt Nam, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình.
Để bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, tại Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (sau đây gọi là Luật Hôn nhân và gia đình) quy định những nguyên tác cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình gồm:
- Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
- Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
- Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con.
- Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình.
- Kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình.
2. Trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với hôn nhân và gia đình
Để bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình, tại Điều 4 Luật Hôn nhân và gia đình quy định trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với hôn nhân và gia đình:
Nhà nước có chính sách, biện pháp bảo hộ hôn nhân và gia đình, tạo điều kiện để nam, nữ xác lập hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng; xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc và thực hiện đầy đủ chức năng của mình; tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hôn nhân và gia đình; vận động nhân dân xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình, phát huy truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc.
3. Các hành vi bị cấm trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình
Để nâng cao chế độ hôn nhân và gia định Việt Nam, pháp luật quy định quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập, thực hiện theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Mọi hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình phải được xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật. Theo đó, tại khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình nghiêm cấm các hành vi sau đây:
Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo. Trong đó, kết hôn giả tạo được hiểu là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục địch khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình. Ly hôn giả tạo là việc lợi dụng ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách, pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân.
Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn.
Tỏa hôn được hiểu là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định (nam chưa đủ 20 tuổi, nữ chưa đủ 18 tuổi).
Cưỡng ép kết hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để ngăn cản việc kết hôn của người có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.
Cản trở kết hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để ngăn cản việc kết hôn của người có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.
Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ. Trong đó, chung sống như vợ chồng được hiểu là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng.
Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hê; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.
Yêu sách của cải trong kết hôn.
Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn.
Cưỡng ép ly hôn được hiểu là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để buộc người khác ly hôn trái với ý muốn của họ.
Cản trở ly hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để buộc người khác phải duy trì quan hệ hôn nhân trái ý muốn của họ.
Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính. Trong đó, sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được hiểu là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tại hoặc thụ tinh trong ống nghiệm. Mang thai hộ vì mục đích thương mại là việc một người phụ nữ mang thai cho người khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để được hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác.
Bạo lực gia đình. Trong đó, bao lực gia đình được hiểu là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình.
Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trực lợi.
II. Kết hôn
1. Khái niệm
Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn (Theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình).
Theo đó, nam nữ kết hôn phải đảm bảo hai yếu tố: Thứ nhất, thể hiện ý chí của nam, nữ muốn kết hôn với nhau; Thứ hai, việc kết hôn phải tuân theo điều kiện và thủ tục do pháp luật quy định mới được thừa nhận.
2. Điều kiện kết hôn
Để hướng tới xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, hôn nhân tự nguyện tiến bộ, pháp luật quy định nam, nữ kết hôn phải tuân theo các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình như sau:
Phải đủ tuổi kết hôn: Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên mới có quyền kết hôn. Việc pháp luật quy định độ tuổi kết hôn là căn cứ vào sự phát triển tâm sinh lý của con người, bảo đảm sự phát triển giống nòi, bảo đảm cho các bên nam, nữ có đủ điều kiện về sức khỏe và khả năng chăm lo cuộc sống gia đình.
Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định. Hôn nhân tự nguyện tiến bộ là nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình. Tự nguyện kết hôn là việc hai bên nam nữ thể hiện sự đồng ý trở thành vợ chồng của nhau mà không bị tác động của bên kia hay của bất kỳ người nào khác. Đây là điều kiện quan trọng nhằm bảo đảm cho hôn nhân được xây dựng trên nguyên tắc tự nguyện, cho phép nam, nữ đến độ tuổi kết hôn có quyền bày tỏ ý chí mình trông việc chọn người “bạn đời”, làm cơ sở cho cuộc hôn nhân của họ được hạnh phúc, bên vững.
Không bị mất năng lực hành vi dân sự. Theo quy định của Bộ luật Dân sự, khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Người mất năng lực hành vi dân sự là người mất khả năng bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Vì vậy, họ không được kết hôn do không thể hiện được sự tự nguyện kết hôn, không nhận thức được trách nhiệm làm vợ, làm chồng, là cha, làm mẹ trong đời sống gia đình.
Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp: Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo; tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn; người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ; kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.
Người cùng giới tính là nam với nam hoặc nữ với nữ. Việc kết hôn giữa những người cùng giới tính không bảo đảm chức năng của hôn nhân là duy trì nòi giống. Do vậy, Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.
3. Đăng ký kết hôn
Đăng ký kết hôn là thủ tục do Nhà nước quy định nhằm công nhận việc xác lập quan hệ hôn nhân giữa hai bên nam nữ là hợp pháp, là cơ sở pháp lý để các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. Pháp luật quy định sự kiện kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình và pháp luật về hộ tịch. Đăng ký hết hôn là biện pháp để Nhà nước có thể kiểm tra và kịp thời ngăn chặn các hiện tượng vi phạm điều kiện kết hôn.
Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình và pháp luật về hộ tích thì không có giá trị pháp lý.
Trường hợp vợ chồng đã ly hôn muốn xác lập lại quan hệ vợ chồng thì phải đăng ký kết hôn.
Pháp luật quy định, đối với kết hôn trong nước không có yếu tố nước ngoài, việc đăng ký kết hôn được thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ thực hiện đăng ký kết hôn.
Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam thực hiện đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; giữa công dân Việt Nam cư trú ở trong nước với công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài; giữa công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài với nhau; giữa công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài với công dân Việt Nam hoặc với người nước ngoài.
Trường hợp người nước ngoài cư trú tại Việt Nam có yêu cầu đăng ký kết hôn tại Việt Nam thì Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của một trong hai bên thực hiện đăng ký kết hôn.
Cơ quan đại diện thực hiện đăng ký kết hôn cho công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài, nếu việc đăng ký đó không trái pháp luật của nước tiếp nhận và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
III. Chấm dứt hôn nhân
Theo quy định của pháp luật, hôn nhân chấm dứt trong 02 trường hợp sau: Thứ nhất, chấm dứt hôn nhân khi phán quyết ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật; Thứ hai, chấm dứt hôn nhân do vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết.
1. Ly hôn
Theo khoản 14 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình thì ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa An.
1.1. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn
Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Nếu kết hôn là nhằm xác lập quan hệ vợ chồng thì ly hôn được đặt ra khi hạnh phúc gia đình không còn tồn tại, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Thực hiện nguyên tắc hôn nhân tự nguyện và tiến bộ, bảo đảm quyền tự do hôn nhân bao gồm quyền tự do kết hôn của nam nữ và tự do ly hôn của vợ chồng. Do quyền ly hôn là quyền nhân thân không thể chuyển giao, vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
Cha, me, người thân thích khác chỉ có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
1.2. Hòa giải ở cơ sở khi vợ, chồng có yêu cầu ly hôn
Hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật theo quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở. Theo quy định tại Điều 3 Luật hòa giải ở cơ sở, điểm c khoản 1 Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP ngày 27/02/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp bảo đảm thi hành Luật hòa giải ở cơ sở, hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các tranh chấp phát sịnh từ quan hệ hôn nhân và gia đình như tranh chấp phát sinh từ quan hệ giữa vợ, chồng; quan hệ giữa cha mẹ và con; quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa anh, chị, em và giữa các thành viên khác trong gia đình; cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; ly hôn.
Luật hôn nhân và gia đình quy định Nhà nước và xã hội khuyến khích về việc hòa giải ở cơ sở khi vợ, chồng có yêu cầu ly hôn.
1.3. Đường lối giải quyết ly hôn theo luật định
a) Thụ lý đơn yêu cầu ly hôn
Khi vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng có yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hợp lý, Tòa án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con thì giải quyết theo quy định về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con trong trường hợp cha mẹ ly hôn, yêu cầu về tài sản thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập
b) Hòa giải tại Tòa án
Xuất phát từ lợi ích gia đình, quyền lợi của vợ chồng, các con cũng như các thành viên khác, với phương châm kiên trì “con nước, còn tát”, pháp luật quy định, sau khi đã thụ lý đơn yêu cầu ly hôn, Tòa án tiến hành hòa giải theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
c) Giải quyết cho ly hôn
Có 02 trường hợp ly hôn theo luật định:
- Trường hợp thuận tình ly hôn. Đây là trường hợp cả hai vợ chồng đều yêu cầu Tòa án cho phép họ được ly hôn. Tại Điều 91 Luật Hôn nhân và gia đình quy định, trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyên ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thảo thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi ích chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.
- Trường hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên. Bên cạnh trường hợp vợ chồng thuận tình ly hôn, còn có trường hợp việc ly hôn chỉ xuất phát từ ý chí của một bên vợ hoặc bên chồng hay còn gọi là đơn phương ly hôn. Theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.
Pháp luật quy định, quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
d) Hậu quả pháp lý của ly hôn
- Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng: Theo nguyên tắc chung, kể từ khi bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật, quan hệ vợ chồng chấm dứt, người vợ, người chồng đã ly hôn có thể kết hôn với người khác. Điều này có nghĩa rằng quan hệ nhân thân giữa vợ chồng cũng đương nhiên chấm dứt.
- Chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn:
+ Nguyên tắc chia tài sản:
Việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn là một vấn đề phức tạp, thường có nhiều tranh chấp giữa vợ chồng khi ly hôn. Để bao quát hết tình trạng quan hệ tài sản của vợ chồng, pháp luật quy định về căn cứ giải quyết trên cơ sở nguyên tắc vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận hoặc chế độ tài sản theo luật định. Do đó:
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật Hôn nhân và gia đình.
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật Hôn nhân và gia đình để giải quyết.
Về nguyên tắc, tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây: Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập; bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Để Tòa án có cơ sở giải quyết những vụ việc liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng khi chấm dứt hôn nhân, pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba xác lập, phát sinh trong thời kỳ hôn nhân vẫn có hiệu lực sau khi ly hôn, trừ trường hợp vợ chồng và người thứ ba có thỏa thuận khác. Tròng trường hợp có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ tài sản thì áp dụng quy định tại các Điều 27 – trách nhiệm liên đới của vợ chồng; Điều 37 – nghĩa vụ chung vè tài sản của vợ chồng và Điều 45 – nghĩa vụ riêng vè tái ản của vợ, chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình và quy định của Bộ luật Dân sự để giải quyết.
+ Chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình (Theo Điều 61 Luật Hôn nhân và gia đình)
Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia theo quy định tại Điều 59 của Luật Hôn nhân và gia đình
+ Chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn (Theo Điều 62 Luật Hôn nhân và gia đình)
Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó.
Việc chia quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được thực hiện như sau:
Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu cả hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo thỏa thuận của hai bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định tại Điều 59 của Luật Hôn nhân và gia đình.
Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng;
Trong trường hợp vợ chồng có quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản chung với hộ gia đình thì khi ly hôn phần quyền sử dụng đất của vợ chồng được tách ra và chia theo quy định tại điểm a khoản này;
Đối với đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở thì được chia theo quy định tại Điều 59 của Luật Hôn nhân và gia đình;
Đối với loại đất khác thì được chia theo quy định của pháp luật về đất đai.
Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà không có quyền sử dụng đất chung với hộ gia đình thì khi ly hôn quyền lợi của bên không có quyền sử dụng đất và không tiếp tục sống chung với gia đình được giải quyết theo quy định tại Điều 61 của Luật Hôn nhân và gia đình.
+ Quyền lưu cư của vợ hoặc chồng khi ly hôn (Theo Điều 63 Luật Hôn nhân và gia đình)
Nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn vẫn thuộc sở hữu riêng của người đó; trường hợp vợ hoặc chồng có khó khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
+ Chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh (Theo Điều 64 Luật Hôn nhân và gia đình)
Vợ, chồng đang thực hiện hoạt động kinh doanh liên quan đến tài sản chung có quyền được nhận tài sản đó và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản mà họ được hưởng, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác.
e) Quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con sau khi ly hôn
Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con làm quyền và nghĩa vụ của cha mẹ không phụ thuộc vào quan hệ hôn nhân của cha mẹ có tồn tại hay không.
- Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi lý hôn được quy định như sau (Theo Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình):
Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
- Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn (Theo Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình).
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
- Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn (Theo Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình)
Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.
Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
- Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
Trong trường hợp có căn cứ chứng minh người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì trên cơ sở lợi ích của con, người thaanh thích, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ có quyền yêu cầu Tòa án quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.
Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:
+ Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;
+ Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáp dục con.
Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.
Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ Luật dân sự.
2. Hôn nhân chấm dứt do vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết
2.1. Về thời điểm chấm dứt hôn nhân
Nếu kết hôn là sự kiện bình thường, xác lập quan hệ hôn nhân, là thời điểm đầu tiên của hôn nhân thì trường hợp vợ, chồng chết là thời điểm cuối cùng của hôn nhân. Điều 65 Luật Hôn nhân và gia đình quy định rõ, hôn nhân chấm dứt kể từ thời điểm vợ hoặc chồng chết.
Trong trường hợp Tòa án tuyên bố vợ hoặc chồng là đã chết thì thời điểm hôn nhân chấm dứt được xác định theo ngày chết được ghi trong bản án, quyết định của Tòa án.
2.2. Về giải quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết (Theo Điều 66 Luật Hôn nhân và gia đình)
Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.
Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Trong trường hợp việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống, gia đình thì vợ, chồng còn sống có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế phân chia di sản theo quy định của Bộ luật dân sự.
Tài sản của vợ chồng trong kinh doanh được giải quyết theo quy định nêu trên, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác
2.3. Quan hệ nhân thân, tài sản khi vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết mà trở về (Theo Điều 67 Luật Hôn nhân và gia đình)
Quan hệ nhân thân: Khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ tuyên bố một người là đã chết mà vợ hoặc chồng của người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được khôi phục kể từ thời điểm kết hôn. Trong trường hợp có quyết định cho ly hôn của Tòa án theo quy định tại khoản 2 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp vợ, chồng của người đó đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được xác lập sau có hiệu lực pháp luật.
Quan hệ tài sản: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 67 Luật hôn nhân và gia đình, quan hệ tài sản của người bị tuyên bố là đã chết trở về với người vợ hoặc chồng được giải quyết như sau:
+ Trong trường hợp hôn nhân được khôi phục thì quan hệ tài sản được khôi phục kể từ thời điểm quyết định của Tòa án hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực. Tài sản do vợ, chồng có được kể từ thời điểm quyết định của Tòa án về việc tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực đến khi quyết định hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ đã chết có hiệu lực là tài sản riêng của người đó;
+ Trong trường hợp hôn nhân không được khôi phục thì tài sản có được trước khi quyết định của Tòa án về việc tuyên bố vợ, chồng là đã chết có hiệu lực mà chưa chia được giải quyết như chia tài sản khi ly hôn.
IV. Quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp ly hôn
1. Quy định về thụ lý vụ án và thông báo thụ lý vụ án
Căn cứ pháp luật: Điều 28, từ Điều 35 đến Điều 40, Điều 195, 196 BLTTDS, các Điều 51, 52, 53 Luật Hôn nhân và gia đình, các Điều 2, 3 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP.
- Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn: Theo quy định tại Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình, vợ, chồng hoặc hại người có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Trường hợp người vợ đang có thai, sinh con hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn. Cha, mẹ, người thân thích có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lục gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
- Nộp đơn khởi kiện: Người khởi kiện vụ án ly hôn phải làm đơn khởi kiện. Hình thức, nội dung đơn khởi kiện phải tuân thủ quy định tại Điều 189 BLTTDS. Người khởi kiện gửi đơn khởi kèm theo tài liệu, chứng cứ mà mình hiện có đến Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án bằng các phương thức nộp trực tiếp tại Tòa án; Gửi đến Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính; hoặc gửi trực tiếp bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).
- Thủ tục nhận và xử lý đơn khởi kiện: Sau khi nhận đơn khởi kiện vụ án ly hôn và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phám xem xét đơn khởi kiện. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện và có một trong các quyết định sau đây:
+ Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện;
+ Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho người khởi kiện nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác;
+ Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện trong trường hợp người khởi kiện không có quyền khởi kiện, vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án hoặc trong trường hợp chưa đủ điều kiện khởi kiện như người vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Trường hợp có khiếu nại của người khởi kiện, kiến nghị của Viện kiểm sát về việc trả lại đơn khởi kiện theo quy định. Phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp và đương sự có khiếu nại.
+ Tiến hành thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc theo thủ tục rút gọn nếu vụ án có đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn quy định tại khoản 1 Điều 317 BLTTDS;
- Thụ lý vụ án: Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì Thẩm phán phải thông báo ngay cho người khởi kiện biết để họ đến Tòa án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí trong trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí. Thẩm phán thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí. Trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì Thẩm phán phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo
- Thông báo về việc thụ lý vụ án: Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Tòa án phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, VKSND cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án. Văn bản thông báo thụ lý vụ án phải tuân thủ quy định tại các khoản 2, 3 Điều 196 BLTTDS.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo thụ lý vụ án, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn và tài liệu, chứng cứ kèm theo, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập (nếu có)
2. Quy định về xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn
- Thời hạn chuẩn bị xét xử: Theo điểm a khoản 1 Điều 203 BLTTDS, thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý theo thủ tục thông thường là 04 tháng. Nếu vụ án phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì được gia hạn thêm 02 tháng. Trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa. Trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 tháng. Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Đối với vụ án tranh ly hôn có yếu tố nước ngoài, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 476 BLTTDS thì thời hạn chuẩn bị xét xử nhanh nhất là 09 tháng, chậm nhất là 12 tháng kể từ ngày Tòa án ra thông báo thụ lý vụ án, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 477 BLTTDS.
- Thu thập chứng cứ, lập hồ sơ vụ án: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại khoản 2 Điều 203 BLTTDS.
+ Thu thập chứng cứ: Về nguyên tắc, nghĩa vụ chứng minh là thuộc về các đương sự nên khi đương sự đưa ra yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu của người khác phải đưa ra các căn cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc.
Trong các trường hợp do BLTTDS quy định, Tòa án có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ.
Đương sự được quyền tiếp cận, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp hoặc do Tòa thu thập, trừ những tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 BLTTDS. Đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác. Việc đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ phải tuân thủ quy định về thời hạn và thủ tục giao nộp theo quy định tại Điều 96 BLTTDS.
+ Lập hồ sơ vụ án: Cũng như việc lập hồ sơ các vụ án dân sự nói chung, hồ sơ vụ án ly hôn bao gồm đơn và toàn bộ tài liệu, chứng cứ của đương sự, người tham gia tố tụng khác; tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập liên quan đến vụ án; văn bản tố tụng của Tòa án, Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án dân sự.
- Quy định về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải: Hòa giải là thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ án ly hôn nhằm tạo điều kiện cho đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án; trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại khoản 2 Điều 206, Điều 207 BLTTDS.
Đương sự, người đại diện hợp pháp hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được thông báo về thời gian, địa điểm tiến hành phiên họp và nội dung của phiên họp. Trường hợp vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được, Thẩm phán vẫn phải kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Thủ tục tiến hành và nội dung phiên họp thực hiện theo quy định tại các điều 210, 211 BLTTDS.
Đối với vụ án ly hôn có yêu cầu giải quyết về nuôi con, Thẩm phán phải lấy ý kiến của con chưa thành niên từ đủ 07 tuổi trở lên, trường hợp cần thiết có thể mời đại diện cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em chứng kiến, tham gia ý kiến.
Người tham gia phiên họp có quyền được xem biên bản ngay sau khi kết thúc phiên họp, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản và ký xác nhận hoặc điểm chỉ. Trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề ly hôn và các vấn đề khác cần giải quyết trong vụ án thì Tòa án lập Biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải thành. Biên bản này được gửi ngay cho các đương sự tham gia hòa giải. Sau 07 ngày kể từ ngày lập Biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán ra Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự.
- Quy định về phiên tòa sơ thẩm giải quyết vụ án ly hôn
Sau khi hòa giải không thành hoặc những trường hợp không được hòa giải, không hòa giải được, Tòa án phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm. Đối với vụ án thuộc trường hợp pháp luật quy định VKSND phải tham gia phiên tòa thì ngay sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải chuyển hồ sơ vụ án cho VKSND cùng cấp nghiên cứu để tham gia phiên tòa.
Việc xét xử phải trực tiếp, kịp thời, công bằng, công khai, trừ trường hợp đặc biệt cần giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì Tòa án xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai; phải bảo đảm tranh tụng trong xét xử.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 85 BLTTDS, nguyên đơn, bị đơn trong vụ án ly hôn phải có mặt tại phiên tòa mà không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng, trừ trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn do một bên vợ hoặc chồng bị mất (hoặc bị hạn chế) năng lực hành vi dân sự, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng hoặc vợ của họ gây ra thì người yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn là người đại diện tham gia tố tụng. Kiểm sát viên phải có mặt tại phiên tòa trong trường hợp pháp luật quy định VKSND phải tham gia phiên tòa; trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn xét xử mà không hoãn phiên tòa (khoản 1 Điều 232 BLTTDS).
Tại phiên tòa, sau khi hỏi về việc rút, thay đổi, bổ sung yêu cầu và giải quyết việc rút, thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự, phần tranh tụng được tiến hành bằng việc nghe lời trình bày về yêu cầu, ý kiến của đương sự, người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự. Các đương sự, người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự tham gia hỏi, đối đáp, trả lời, trình bày, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác dưới sự điều hành của chủ tọa phiên tòa.
Tại phiên tòa, mọi tài liệu, chứng cứ phải được xem xét khách quan, toàn diện, công khai, trừ trường hợp không được công khai theo quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử hỏi những vấn đề chưa hỏi, chưa rõ nhằm làm rõ các vấn đề cần giải quyết trong vụ án. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phải phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.
Căn cứ vào kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử cân nhắc để ra bản án, quyết định sơ thẩm. Việc cấp trích lục bản án sơ thẩm ly hôn, việc giao, gửi bản án thực hiện theo quy định tại Điều 269 BLTTDS. Ngoài ra, theo khoản 4 Điều 369 BLTTDS, bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật phải được công bố trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án, trừ trường hợp bản án có chứa thông tin quy định tại khoản 2 Điều 109 BLTTDS.
- Quy định về kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định sơ thẩm
Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án ly hôn có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án ly hôn của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.
Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện nhận được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định được niêm yết theo quy định của BLTTDS.
Người kháng cáo quá hạn phải có bản tường trình về lý do quá hạn và tài liệu, chứng cứ chứng minh cho việc gửi kháng cáo quá hạn gửi cho Tòa án. Kháng cáo quá hạn do Hội đồng xét kháng cáo giải quyết. Phiên họp xét kháng cáo quá hạn có sự tham gia của đại diện VKSND cùng cấp.
Thời hạn kháng nghị đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 01 tháng, kể từ ngày tuyên án. Trường hợp Kiểm sát viên không tham gia phiên tòa thì thời hạn kháng nghị tính từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản án. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 10 ngày, kể từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được quyết định. VKSND kháng nghị quá hạn phải gửi văn bản giải thích theo yêu cầu của Tòa án cấp sơ thẩm. Việc thay đổi, bổ sung, kháng cáo, kháng nghị khi đã hết thời hạn luật định không được vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị ban đầu
3. Quy định về giải quyết vụ án ly hôn theo thủ tục phúc thẩm
- Chuẩn bị xét xử phúc thẩm
+ Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm là 02 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án. Trường hợp vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án cấp phúc thẩm có thể quyết định kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không được quá 01 tháng. Trường hợp tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm thì thời hạn này được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
+ Việc thu thập chứng cứ, lập hồ sơ vụ án: Chứng cứ trong thủ tục phúc thẩm do đương sự cung cấp, do VKSND thu thập hoặc do Tòa án cấp phúc thẩm thu thập. Chứng cứ do VKSND thu thập phục vụ cho việc kháng nghị và bảo vệ kháng nghị. Chứng cứ do đương sự giao nộp bao gồm: Tài liệu, chứng cứ do Tòa án cấp sơ thẩm đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không cung cấp, giao nộp được đúng hạn vì có lý do chính đáng; hoặc tài liệu, chứng cứ mới (Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm).
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm có quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời khi thấy cần thiết theo quy định của pháp luật. Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án trong trường hợp người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo hoặc VKSND rút toàn bộ kháng nghị trước khi Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
- Xét xử phúc thẩm vụ án
Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị. Người kháng cáo, đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải được triệu tập tham gia phiên tòa. Phiên tòa phúc thẩm phải có mặt Kiểm sát viên VKSND cùng cấp. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt, Tòa án vẫn tiến hành xét xử trừ trường hợp VKSND kháng nghị phúc thẩm (khoản 1 Điều 296 BLTTDS).
Chuẩn bị khai mạc phiên tòa, thủ tục bắt đầu phiên tòa, thứ tự hỏi và công bố tài liệu, chứng cứ, xem xét vật chứng tại phiên tòa phúc thẩm được thực hiện như tại phiên tòa sơ thẩm. Sau khi công bố nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm và nội dung kháng cáo, kháng nghị, Chủ tọa phiên tòa phải hỏi và giải quyết việc rút đơn khởi kiện, thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị và hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không. Trong trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước và tại phiên tòa phúc thẩm, việc giải quyết vụ án thực hiện theo quy định tại Điều 299 BLTTDS; trong trường hợp các đương sự thỏa thuận với nhau tại phiên tòa phúc thẩm, việc giải quyết vụ án thực hiện theo Điều 300 BLTTDS.
Nội dung và phương thức tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm được thực hiện theo quy định tại Điều 247 BLTTDS. Tại phiên tòa phúc thẩm, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chỉ được tranh luận về những vấn đề thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm và đã được hỏi tại phiên tòa phúc thẩm. Kiểm sát viên phải tranh luận với đương sự, người bảo vệ quyền, lợi hợp pháp của đương sự về tính hợp pháp, tính có căn cứ của kháng nghị. Nếu có tài liệu chứng cứ bổ sung thì Kiểm sát viên có quyền xuất trình tại phiên tòa phúc thẩm. Sau khi kết thúc việc tranh luận và đối đáp, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm và quan điểm của VKSND đối với kháng cáo, kháng nghị.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét, cân nhắc để chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị. Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền giữ nguyên, hủy, sửa bản án sơ thẩm, hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án, đình chỉ xét xử phúc thẩm… theo quy định tại Điều 308 BLTTDS.
Thủ tục phúc thẩm đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị được thực hiện theo quy định tại Điều 314 BLTTDS.
Tin liên quan
Liên hệ
Địa chỉ:
Tầng trệt, Tòa nhà Babylon Garden, số 6-7 Phan Tôn
Phường Đa Kao, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh
Số điện thoại: 0902 50 58 78
Email: info@spl-law.com.vn